Người niệm Phật tuy đã phát khởi tín tâm dũng mãnh và công phu không gián đoạn, nhưng nếu tái sinh cõi Ta bà thì vẫn bị luân chuyển vì định huệ còn non kém, quả đức chưa hoàn mãn.
Cần phải vãng sinh Cực Lạc thế giới, cận kề Phật và Thánh chúng, thành tựu vô lượng Ba la mật, thâm nhập Tam muội Tổng trì môn, phát hoằng thệ nguyện đi khắp mười phương giáo hóa vô số chúng sinh. Không lâu sau lấy cỏ rải nơi Bồ đề đạo tràng, hàng phục ma quân, thành Đẳng Chánh Giác, chuyển Pháp luân Vô thượng. Nên biết rằng được vãng sinh Cực Lạc thì không bao giờ trở lại địa vị phàm phu với thân xác ngũ uẩn nữa.
Tịnh độ tông chủ trương niệm Phật, quán tưởng Đức Phật A Di Đà và sự thù thắng, trang nghiêm của cõi Cực Lạc Tịnh độ, bằng tự lực với Tín, Hạnh, Nguyện tương ưng bản nguyện của Đức Phật A Di Đà, hành giả nương nhờ Phật lực để vãng sinh về Cực Lạc trong trạng thái nhất tâm bất loạn (Chánh định). Về phần Hạnh (trong Tín, Hạnh, Nguyện), không chỉ có chuyên trì niệm Phật, quán tưởng mà còn thọ trì Tam quy, Ngũ giới, hành Thập thiện, tu tạo các công đức phước lành, hơn thế nữa là phát Bồ Đề tâm, nguyện thành Phật đạo, hóa độ chúng sinh. Kinh Quán Vô Lượng Thọ có nói rõ: Hành giả muốn vãng sinh Tịnh độ phải hội đủ ba điều kiện: Một là hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, nuôi dưỡng lòng từ không sát hại, tu tập mười nghiệp lành (Thập thiện nghiệp). Hai là thọ trì Tam quy (quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng), đầy đủ các giới, không phạm oai nghi. Ba là phát Bồ đề tâm, tin sâu lý nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa, khuyên người khác cùng tu.
Từ đó cho thấy Tịnh độ tông không phải là một tông phái chỉ có tín ngưỡng Tịnh độ Cực Lạc và Đức Phật A Di Đà, tông phái chỉ có niềm tin, mà đó là tông phái chủ trương con đường tu tập Giới, Định, Tuệ, mặc dù có vẻ như thiên về Giới và Định. Nhờ công phu tinh tấn niệm Phật mà thành tựu Định (nhất tâm bất loạn, Niệm Phật tam muội), nhờ thọ trì Tam quy, Ngũ giới, Thập thiện và tu tạo các công đức phước lành (trong đó có hộ trì Tam bảo, hoằng dương Chánh pháp, từ thiện-bố thí, phóng sinh v.v..) mà thành tựu được Giới (gồm có Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giới và Nhiêu ích hữu tình giới).
Ngoài ba bộ kinh, một bộ luận trọng yếu của tông Tịnh độ (Phật thuyết A Di Đà kinh, Vô Lượng Thọ kinh, Quán Vô Lượng Thọ kinh và Vãng sinh Tịnh độ luận), có lẽ kinh Niệm Phật Ba la mật (Pháp sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán vào đời Diêu Tần 384-417) là bộ kinh nói rõ bản ý, chủ đích của tông Tịnh độ, lý giải một cách rõ ràng, thấu đáo về mục đích và đường lối tu tập pháp môn niệm Phật cầu vãng sinh. Trong phẩm thứ hai Mười tâm thù thắng(Bản dịch từ Hán sang Việt của Hòa thượng Thích Thiền Tâm, ấn bản năm 1997-PL.2541) có nói:
“Pháp môn niệm Phật chính là chuyển biến cái tâm thể của chúng sinh, bằng cách không để cho tâm thể ấy duyên với vọng niệm, với lục trần là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, với huyễn cảnh, với kiến chấp, với mong cầu, với thức phân biệt v.v.. Mà chỉ đem tâm thể ấy duyên mãi với danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật. Không bao lâu người niệm Phật tự nhiên đi vào chỗ vắng lặng, sáng suốt, an lạc, cảm ứng với nguyện lực của đức A Di Đà, thấy mình sinh vào cõi nước Cực Lạc, thân mình ngồi trên tòa sen báu, nghe Phật và Bồ tát nói pháp, hoặc thấy Phật lấy tay xoa đảnh”(trang 21, dòng 14-24). Điều này cũng tương tự như lời Đức Phật dạy trong kinh Quán Vô Lượng Thọ: “Chư Phật Như Lai là thân pháp giới, vào trong tâm tưởng chúng sinh, cho nên tâm các ngươi tưởng Phật thì tâm ấy là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, tâm ấy làm Phật, tâm ấy là Phật. Biến Chánh Biến Tri của Phật từ nơi tâm tưởng mà sinh, vì thế các ngươi phải nhớ nghĩ và quán tưởng kỹ thân của Đức Phật kia”.
Đó chỉ là sự an trú tâm trong tịnh cảnh, nhưng trí tuệ và định lực chưa đủ sức phá trừ căn bản vô minh, phiền não lậu hoặc vi tế. Vì thế cần phải thường ở trong tịnh cảnh do niệm Phật nhất tâm, thành tựu tam muội, cộng với sự nhiếp hóa hỗ trợ của Đức Phật A Di Đà, Thánh chúng và hoàn cảnh thanh tịnh của cảnh giới Cực Lạc để chuyển hóa hoàn toàn, thành tựu giải thoát. Sau khi có thể tự tại ra vào sinh tử hóa độ chúng sinh, vẫn trải qua quá trình hành Bồ tát đạo, và cuối cùng là thành Phật, chuyển Pháp luân như con đường chư Phật quá khứ đã trải qua. Tiếp tục khảo sát kinh Niệm Phật Ba la mật, chúng ta sẽ thấy rõ điều đó. Kinh viết: “Tuy công phu niệm Phật trong hiện kiếp đã đặt nền tảng vững vàng cho sự nghiệp giải thoát, nhưng sau đó phải vãng sinh Tịnh độ, lãnh thọ sự giáo hóa của Phật và Thánh chúng cho tới khi thành tựu Vô sanh Pháp nhẫn. Sau đó mới đủ năng lực hiện thân khắp mười phương hành Bồ tát đạo, ra vào sinh tử mà không trói buộc, trở lại chốn ác trược mà chẳng nhiễm ô, cứu độ chúng sinh không có hạn lượng” (Sđd, trang 22, dòng 16-24).
“Người niệm Phật tuy đã phát khởi tín tâm dũng mãnh và công phu không gián đoạn, nhưng nếu tái sinh cõi Ta bà thì vẫn bị luân chuyển vì định huệ còn non kém, quả đức chưa hoàn mãn. Cần phải vãng sinh Cực Lạc thế giới, cận kề Phật và Thánh chúng, thành tựu vô lượng Ba la mật, thâm nhập Tam muội Tổng trì môn, phát hoằng thệ nguyện đi khắp mười phương giáo hóa vô số chúng sinh. Không lâu sau lấy cỏ rải nơi Bồ đề đạo tràng, hàng phục ma quân, thành Đẳng Chánh Giác, chuyển Pháp luân Vô thượng. Nên biết rằng được vãng sinh Cực Lạc thì không bao giờ trở lại địa vị phàm phu với thân xác ngũ uẩn nữa. Do đó mới gọi là Bất thối chuyển. Từ đó về sau, dần dần thành tựu mười thứ trí lực, mười tám pháp bất cộng, ngũ nhãn, lục thông, vô lượng đà la ni, vô số tam muội, thần thông du hý, biện tài vô ngại v.v.. đầy đủ công đức vô lậu của bậc Đại Bồ tát, cho đến khi đắc quả Phật. Bởi vậy mà ta, Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn hôm nay trân trọng xác quyết rằng: “Vãng sinh đồng ý nghĩa với thành Phật” (Sđd, từ dòng 5 trang 23 đến dòng 2 trang 24).
Chỉ khi tâm an trú hoàn toàn vào trạng thái thanh tịnh vi diệu (tịnh độ, cực lạc), mà theo giáo nghĩa Tịnh độ thì chỉ có cảnh giới của chư Phật, của chư Thánh bất thối chuyển như Cực Lạc, thì ở đó các phiền não vi tế, các tập khí sinh tử mới không có điều kiện sinh khởi và dần dần được chuyển hóa, hành giả mới không rơi trở lại cõi đời ngũ trược (không còn tái sinh trở lại cõi Ta bà), từ đó theo sự giáo hóa của Đức Phật A Di Đà mà tu tập cho đến ngày thành tựu viên mãn đạo quả Bồ đề.
Những lời dạy trong kinh Niệm Phật Ba la mật nói trên cũng là câu trả lời cho thắc mắc: Pháp môn Tịnh độ chỉ có Định hay thiền Chỉ mà không có tuệ quán (thiền Quán) thì làm sao phá trừ căn bản vô minh, vi tế lậu hoặc. Mặc dù các hành giả Tịnh độ cho rằng quán hảo tướng và công đức của Đức Phật A Di Đà và sự thù thắng trang nghiêm của cảnh giới Cực Lạc, đó là thiền Quán; Hoặc cho rằng từ Định (nhất tâm bất loạn, niệm Phật Tam muội) sẽ phát sinh Tuệ (tuệ giác, tuệ quán), nhưng cách lý giải này dường như không thỏa đáng. Căn cứ theo kinh điển Nguyên thủy thì thiền quán ở đây là quán về duyên sinh, vô ngã để chứng tuệ giác vô ngã (hay trí Bát nhã, theo quan điểm của Phật giáo phát triển). Bởi vì nếu nói từ Định mà sinh Tuệ thì tại sao ngoại đạo đạt tới cảnh giới Định rất cao như Không vô biên xứ định, Thức vô biên xứ định, Vô sở hữu xứ định và Phi tưởng phi phi tưởng xứ định mà vẫn không giác ngộ, không xuất hiện trí tuệ giải thoát. Có thể nói nguyên nhân là vì ngoại đạo còn chấp thủ các cảnh giới thiền định và không thấy được lý Duyên sinh-Vô ngã, ngoại đạo đã không tu tập tuệ quán để thấy Tứ đế (Bản chất của đời sống là vô thường, bất toại nguyện, là khổ; nguyên nhân của thực trạng đó hay nguyên nhân của khổ; An lạc hạnh phúc khi chấm dứt khổ và phương pháp hay con đường chấm dứt khổ).
Trở lại tư tưởng Tịnh độ. Theo bản ý của tông Tịnh độ thì “vãng sinh” là thành Phật ở ý nghĩa “bất thối chuyển” (vô sinh, không còn tái sinh trở lại cõi ta bà), chứ “vãng sinh” không phải là thành Phật trong ý nghĩa giác ngộ viên mãn, thành bậc phước trí nhị nghiêm, đầy đủ tam minh, tứ trí, thành tựu tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn. Vãng sinh chưa phải là cuối con đường tu tập để đạt được cứu cánh đạo quả Bồ đề hay thành Phật thật sự. Điều này không chỉ kinh Niệm Phật Ba la mật mà các kinh khác của Tịnh độ tông cũng có nói rõ. Mục đích của tông Tịnh độ là để có được cơ hội vãng sinh.
Sở dĩ nhiều người tu theo pháp môn Tịnh độ là vì cho rằng pháp môn này đảm bảo hơn những pháp môn khác ở chỗ “bất thoái chuyển”, hành giả được an toàn trong cảnh giới của Phật và Bồ tát thượng thiện nhân, đây là hoàn cảnh rất tốt làm tăng thượng duyên cho quá trình tu tập. Nếu không vãng sinh về Cực Lạc Tịnh độ, còn tái sinh trở lại cõi đời ngũ trược thì không lấy gì đảm bảo hành giả không thối thất tâm Bồ đề, lui sụt công năng tu hành, vướng vào ngũ dục lục trần trong quá trình tiếp duyên xúc cảnh nếu không tinh tấn tu hành, không có niệm, định, tuệ vững vàng.
Tuệ Viễn Đại sư (333-416) đời Đông Tấn (317-420), người được xem là Sơ tổ sáng lập Tịnh độ tông Trung Hoa, vốn là một người chuyên nghiên cứu Thiền học, tu tập Giới, Định, Tuệ, nhưng ngài lại lập ra Bạch Liên Xã ở Lô sơn, quy tụ tứ chúng đồng tu niệm Phật cầu sinh Tây phương Cực Lạc. Các bậc long tượng trong Chánh pháp như ngài Mã Minh, Long Thọ, Thế Thân v.v.. đều tán thán pháp môn Tịnh độ. Trong Đại Thừa Khởi Tín luận, ngài Mã Minh có viết: “ Nên mạnh mẽ tinh tấn, ngày đêm sáu thời lễ bái chư Phật, thành tâm sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỷ, hồi hướng về quả Bồ đề. Tu tập như thế không thôi nghỉ thì sẽ được khỏi các chướng, căn lành thêm lớn”. Lại nói: “Như Lai có thắng phương tiện để nhiếp hộ người có tín tâm. Ấy là dùng nhân duyên chuyên nhớ niệm Phật, theo nguyện cầu sinh về Tịnh độ, do được thường thấy Phật nên vĩnh viễn xa lìa ác đạo. Như trong tu đa la (kinh) nói: Nếu người chuyên niệm Phật A Di Đà ở phương Tây, đem những căn lành mình tu hồi hướng về cõi kia, thì được vãng sinh. Do thường thấy Phật nên không còn lo thối chuyển”. Trong Đại Trí Độ luận của ngài Long Thọ có nói: “Niệm Phật tam muội có thể trừ các thứ phiền não và tội đời trước. Lại nữa, niệm Phật tam muội có phước đức lớn hay độ chúng sinh. Cho nên các Bồ tát muốn độ sinh, nếu tu các pháp tam muội khác tất không bằng môn niệm Phật tam muội, vì môn này có phước đức lớn, mau diệt các tội. Phật là Pháp vương, Bồ tát là Pháp tướng, chỗ Bồ tát tôn trọng duy chỉ có Phật. Bồ tát thường khéo tu nhân duyên niệm Phật, nên thường gặp chư Phật, như kinh Bát Chu nói: Bồ tát vào tam muội này (niệm Phật tam muội) liền hiện sinh về cõi Phật A Di Đà”. Ngài Thế Thân dạy pháp tu Ngũ niệm môn trong Vô Lượng Thọ kinh luận như sau: “Nếu tu Ngũ niệm môn thành tựu, kết quả sẽ được sinh về Cực Lạc, thấy Phật A Di Đà. Ngũ niệm môn là gì? Lễ bái môn, tán thán môn, phát nguyện môn, quán tưởng môn và hồi hướng môn. Lễ bái là thế nào? Ấy là dùng thân lễ bái Đức Phật A Di Đà, tỏ ý cung kính, cầu Phật nhiếp thọ. Tán thán là thế nào? Là dùng miệng khen ngợi sắc thân, danh nghĩa, ánh sáng, trí tuệ của Đức Phật A Di Đà, muốn tu hành như thật cho được tương ưng. Phát nguyện là thế nào? Ấy là một lòng chuyên niệm vào nơi chánh định, nguyện sinh về Cực Lạc. Quán tưởng là thế nào? Là dùng chánh niệm quán sát công đức trang nghiêm của cõi Cực Lạc, công đức trang nghiêm của Phật A Di Đà và công đức trang nghiêm của chư Bồ tát, thánh chúng. Hồi hướng là thế nào? Ấy là tâm từ bi không bỏ những chúng sinh khổ não, nguyện đem căn lành công đức phước báo của mình hồi hướng, cầu cho tất cả loài hữu tình đều được sinh về Cực Lạc”.Qua sự tán dương khen ngợi và khuyến khích tu tập theo pháp môn Tịnh độ của các bậc long tượng trong Chánh pháp, chúng ta không thể xem thường pháp môn Tịnh độ, vì chắc chắn pháp môn ấy có sự thù thắng vi diệu. Sự thù thắng vi diệu ấy càng được chứng minh sáng tỏ hơn khi chúng ta có sự thực hành, thể nghiệm.
Phan Minh Đức
Daophatngaynay